Tác giả: Phan Triều Hải
GÓC CỦA PHỐ
(Văn học Việt Nam : Truyện ngắn)
Chú ngồi đó, giọng đều đều, miên man không dứt. Tôi ngồi bưng lấy tai nhìn ra ngoài, thỉnh thoảng lại phải ậm ừ, gà gật cho đúng nhịp ngắt của chú. “Ðúng không?”, “Theo cháu thì sao?”… Chú ngắt và nói tiếp, không cần ai đáp. Bây giờ hình như chú đang nói về đám con gái trường ngân hàng, mùa hè vẫn kéo đến chật nhà để ăn sữa chua, nay thì biến sạch. Mùa đông. Chú than vãn, mùa đông không bán được cũng chẳng sao, nhưng buồn mới là ê chề. Hôm qua tôi phải nghe chú kể suốt buổi, cả khi lên giường vào lúc nửa đêm, về chuyện tình duyên. Mỗi cuộc tình sâu sắc của chú đều bị cắt đột ngột do chú chán nản người ta, hay do người ta chán nản chú, vào đúng thời điểm hai người toan tính nắm tay nhau. Những thiếu nữ chưa kịp trở thành người tình ấy hiện lên với vẻ đằm thắm, dịu dàng. Các cô nhận những gói quà vụn vặt không quá đỗi niềm nở nhưng cũng vừa đủ gieo cho chú một chút hi vọng để tiếp tục yêu thêm vài mươi ngày nữa. Chú kết luận: “Tao không cặp với ai được lâu”. Chú hai mươi bảy tuổi.
Tôi hai mươi sáu tuổi. Tôi thuộc một thế hệ khác, không hay ho hơn, nhưng có khác. Chú và cháu. Tôi cao hơn chú một cái đầu, ít nói và bế tắc. Tôi không dễ thoát ra khỏi cuộc tình này bằng cách lăn ngay vào một cuộc tình mới, mà chỉ luẩn quẩn, chui rúc trong cái đám mờ mịt của cuộc tình đã thành tro bụi ấy. Lúc này tôi đang ở trong một tình trạng như vậy. Tôi thề sẽ không nhắc lại một lời nào về việc tôi đã nghĩ gì, đã hy vọng như thế nào, và đã nhận được gì trong cuộc tình này. Tôi không muốn ai khuyên bảo hay hỏi han gì cả. Tôi muốn ngồi một mình. Lúc này, đó là điều tôi ý thức được mộc cách rõ ràng nhất. Tôi thấy âm thanh của người hay xe cộ đi qua nghe cũng giống như tiếng của côn trùng, nghe mùi của mưa ướt cũng đùng đục như mùi của đất. Tất cả đều như chìm xuống, lắng xuống. Tôi nghĩ, có lẽ sai lầm lớn nhất của mình là quá tin vào tình yêu, cứ ngĩ rằng yêu rồi không cần có ai nữa cả, không cần bạn bè, không cần người thân. Ðể rồi rốt cuộc nhận ra rằng, người tình của thuở thăm dò chỉ là một thứ gì đó mong manh nhất, phù du và dễ bội bạc nhất. Tôi không được như chú, rõ ràng thế. Tôi không kềm được cái thói luôn khuếch đại những chuyện nhỏ thành những chuyện to của mình.
Ðây là cái góc nhỏ của phố. Cây không nhiều nhưng lớn, nghiêng ngiêng ra phía lề đường trơ trọi đối diện, thình thoảng lại rủ xuống vài chiếc lá to. Tôi nhớ lần đầu tiên ra đây, không phải một vài là mà cả một đêm lá vàng ươm. Và khi về, điều trước tiên tôi nhứ, không phải là em, mà là những khoảng đường đầy lá ấy. Sao đó em luôn đến với tôi qua những con đường, qua hình ảnh lá rơi chao qua chao lại, và đáp nhẹ xuống đằm thắm lạ lùng. Nhưng giờ thì khác hẳn, loe ngoe nhưng lá nằm bấp bênh trên hè, trôi trên rãnh, mà lại là lá xanh. Có lẽ, khi người ta đã quá yêu mến một nơi nào ngay từ lúc đầu gặp gỡ, thì không bao giờ tìm cách gặp lại một lần thứ hai nữa. Không nên.
Hương chạy xe vù vù đến nói “Tớ đến thăm cậu đây”. Theo sau, Thanh và Quân cũng vừa kịp đến. “Về trường em chơi đi”. Lúc ấy là chiều nhưng trời không có màu sắc gì. Tôi nói với cả bọn hãy vào ngồi chơi đã. Chú lăng xăng kéo bàn kéo ghế. “Sữa chua nhé”. Hương cười, xinh xắn. “Cho cốc lớn chú nhé”, giọng cô nhẹ như giọng trẻ con. Tôi bảo: “Chú kém Hương hai tuổi đấy”. “Vậy thì tốt quá”, Hương nói, tinh nghịch, nhưng chú không hiểu gì. Cả bọn ngồi ăn từng thìa một, khoan thai. Quân ngóng tai lên: “Dường như có tiếng gì là lạ”. Mọi người cùng ngóng tai lên, chú nói: “À, nhớ rồi. Con bé ở đầu đường. Nó chết”. Tiếng của chú rơi xuống sàn gạch bông bần bật, lạnh lẽo. Hương ngồi lặng đi một lát: “Trẻ à?” Chú thao thao bất tuyệt: “Ừ trẻ, trẻ chứ. Mà này…” Chú kể lai lịch ngọn ngành, nhưng không ai nghe. Chúng tôi ra cửa. Từ góc phố này có thể nhìn ra được ba con đường khác. Con đường thứ tư cần phải ngoái lại. Trên con đường đó, một vài chiếc xe chậm rãi đi. Thanh nép vào tôi, hỏi: “Ðứng đây làm gì, anh?” Chú cũng ra, giọng loảng xoảng: “Ðám ma mà lại đi vào buổi chiều. Lạ thật.” Tôi quay lại, nói: “Chú vào xem hàng đi kẻo mất”. Chú giật mình. “Ừ, Tao vào đây. Chết thật.” Chiếc xe tang đã đến gần lắm rồi, phía sau xe đám thanh niên trẻ măng đi, lặng lẽ. Gió bắt đầu thổi tóc của họ bay lên. Tôi chưa thấy đám tang nào lặng lẽ như thế này. Nơi tôi ở, mỗi đám tang chia làm hai phần rõ rệt, đi đầu là nhưng người khóc than, dần dần về đuôi là nhưng không mặt lành lạnh tỉnh táo, có điểm xuyết những nụ cười. Còn đây đơn giản chỉ là một đoàn người, không một ai nói, không một tiềng gào, chỉ có đi, chậm rãi, như không còn thiết tha với gì nữa. Hương thì thầm: “Trẻ thật.” Tôi ngẩng lên, cái ảnh của người chết đã đi qua, vừa kịp đi qua.
Cả bọn quay về, thấy chú đang dắt nốt chiếc xe cuối cùng vào trong. “Vừa trông chừng xe, vừa bán hàng, rốt cuộc không bán được gì cả.” Quân mặt trắng bét, vẫn còn lắp bắp: “Sao lại chết dễ dàng thế.” Không ai trả lời cả. Lạnh tanh. Chú nói: “Mà mấy đứa có biết vì sao lại đưa ma vào buổi chiều không?”. Cả bọn lặng đi. Hương nói: “Chú cho Hương gửi tiền.” Chú đỏ bừng mặt chối: “Ba cốc mà tiền bạc gì”. Tôi nói” “Thôi, chú nhận đi”. Tôi vào phòng, lấy túi xách của mình, một cái túi mềm đầy ngăn. Một bàn chải đánh răng, một ống kem, một cái khăn, một bộ quần áo. Thanh nhắc: “Ðem theo áo ấm”. Phải rồi, tối qua, đài báo có gió mùa đông bắc khiến tôi đợi mãi. Quân ra dường huơ tay ướm thử nói: “Về rồi mà, gió mùa đông bắc về rồi đấy.” Tôi ra ngoài, quả trời đã lạnh thật. Vi vu vi vu. Chú nói: “Sáng mai nhớ về”. Tôi “vâng” và nhớ đám tang vừa mới đi qua, mà thấy lời mình sao yếu ớt thế, mỏng manh thế.
Không ai nhắc một lời đến em. Mọi người đang muốn làm tôi vui. Quân rủ đi chơi đâu đó. Hương ngồi sau tôi e dè: “Khuya hẵng đi”, và ra lệnh cho anh chàng: “Đi về”. Cả bọn về trường. Tôi nhớ ngày xưa cũng từng học như thế này, cũng ăn chung, ở chung như vậy. Cũng có những chiều ra hiên, í một tiếng, ới một tiếng và kéo nhau ra hồ, đi lang thang qua những con đường nhỏ. Ở đây cũng thế, chỉ có điều lạnh hơn. Càng về chiều càng lạnh hơn.
Tối, cả bọn ngồi ngoài quán, xem một phim truyền hình nhiều tập của Nhật trên cái màn hình đen trắng cổ lỗ. Chủ quán, đã lớn tuổi, gầy gò, đầu đội mũ lông mềm như những thợ đường sắt Sibir thuở nào, dáng vẻ tận tụy, chậm rãi đẩy một thanh củi vào lò, rồi lùi vào trong quầy. Hương nói: “Cho cháu xin thêm một tuần nước chè”. Quân chen vào: “Hạt giời nữa”, mặt nom ngây thơ lạ. Thành phố này không chỉ đẹp nhờ hồ hay những phố, mà còn đẹp nhờ ở ngôn từ. Những cái tên giản dị. Nhưng với người thì khác hẳn, ngôn từ làm người ta trở nên đáng yêu hơn, nhưng cũng đôi khi làm họ biến dạng đi.Thanh ghé ghế gần lại bàn than: “Sao người ta độc ác quá vậy?” Chủ quán rót ra một vòng nước chè, hơi lên nghi ngút, và đem ra một đĩa hạt hướng dương. Hương nói, mắt không rời màn hình: “Phim mà. Nghe nói thằng chồng tự tử, phải không bố?” Chủ quán quay lại, nheo mắt lèm nhèm, đáp: “Ừ, bố cũng nghe đồn như thế.”
Tôi ngồi như nằm trên chiếc ghế mây con con, êm ái ấy, thấy mình bắt đầu dần dần về lại với mình. Êm đềm quá những lúc như vậy, tôi tỉnh táo hẳn ra, và nếu cần thiết, tôi có thể tính toán phân tích mọi điều rành rọt như mọi lần, như khi soạn thảo một hợp đồng. Lúc này, tôi phân tích em như là một thiếu nữ đầy tham vọng và khôn lanh, nhưng cũng không thoát khỏi sai lầm của bao nhiêu người, là quá tự tin và coi thường người khác. Một người lạ trở thành một người thân là để yêu quý nhau thêm chứ không phải để thất vọng vì thấy nhau hóa ra cũng tầm thường, cũng rất người như bao kẻ khác. Ai có thể sống mà không có chất người ấy. Tôi cũng tiếp tục phân tích mọi điều một cách rành rẽ và kết luận không nên đào sâu thêm vào câu chuyện này nữa. Trong chuyện này, tôi và em không ai được gì hay mất gì. Cả hai đều có thể vui vẻ mà tiếp tục những cuộc phiêu lưu mới.
Hương kêu lên, thất vọng: “Hết phim rồi”. Chủ quán tỏ ra chiều khách, hỏi: “Nhạc nhẹ nhé. Không lời hay có lời”. Quân nói: “Tụi cháu thích yên lặng một chút”. Ngoài trời bắt đầu có mưa. Mưa bụi. Sương giăng lờ mờ quanh những lối vào truờng. Quân nói: “Mưa này đi dạo ưa lắm đây”. Hương nói: “Ðể chị lên lấy thêm khăn,” và đứng dậy. Mười một giờ khuya cũng như bảy giờ tối không một ai đi qua. Chỉ có khác là lạnh đã chuyển sang rét rồi, và đất bắt đầu mềm ra vì bụi nước.
Hương xuống, khăn quấn đầy quanh tai, quanh cổ, giọng lùng bùng: “Ấm rồi” Và khoác tay tôi. Một vòng hồ rồi mon men về phố. Ði mà không ai nói với ai một lời nào, đi như thể đã có hẹn hò trước. Ngang nhà thờ lớn, đèn điện tắt phụt tối om khiến cái tháp cao vút giờ trông như một ngọn giáo dài. Cổng nhà thờ cao ngát đan bằng những thanh sắt cuồn cuộn như bắp tay. Nơi đây, ban ngày có thể đi ra một đám cưới, và chiều ủ ê vì một đám tang. Còn đêm, như lúc này đây, không đèn không đuốc, trông như một pháo đài, một tĩnh vật. Tường lạnh lẽo và không có cảm xúc gì. Dường như mỗi vật đều có đời sống riêng cho mỗi giờ. Ngay tôi cũng thế, sáng nay là một tên buồn rũ, chiều là một kẻ bế tắc, ân hận về những gì mình đã làm, nghĩ rằng tất cả những gì mình làm đều sai lầm. Còn lúc này thì hoang mang, không biết những gì mình làm, nghĩ rằng tất cả những gì đang diễn ra là hư hay thực với những con đường thoai thoải đi lên, thấp thoáng những quán, mập mờ đèn ấm áp.
Hương nói: “Chân gà nhé?”. Cả bọn chui vào một gánh bên đường, mỗi lời nói được bọc bằng một nhúm hơi mờ mịt như khói. Thanh nói: “Em xin tim gà”. Và rượu trắng, mỗi đứa một cốc, nóng ran ngực. Thanh nói: “Anh uống nữa đi. Anh là khách quý đấy”. Tôi hỏi thế nào là khách quý. “Chỉ cần sống bao dung là quý rồi”, cả bọn nói. Tôi cười, thấy cay cay mắt. Tôi muốn nói rằng tôi yêu tất cả, mà không nói được. Quân ôm vai tôi: “Chẳng cần nói gì đâu”. Gió chạy lan man trên đường, thổi mưa rồi tung lên. Mưa không thành sợi được, dưới ánh đèn cứ như một đám bụi mờ. Quân nói: “Em cho anh chữ này. Mưa lem tem”. Tôi nói: “Hay quá”. Hương nói: “Cafe đi”.
Bây giờ là một giờ. Tôi thấy mình bắt đầu sống theo bản năng, một bản năng lành mạnh có từ thuở ấu thơ, lúc chưa bị áp đặt bởi một lề lối giáo dục nào, lúc chưa hề biết trên đời có những loại người xung quanh cũng vậy. Có đi giữa mưa và rét này, như những kẻ điên, mới thấy thù hằn và toan tính vô vị làm sao. Biết đâu sau đêm nay, cảm, và sau một giấc ngủ ngắn mệt nhoài, có một kẻ nào đó ra đi, vĩnh viễn. Thanh thì thầm như vậy. Hương nói: “Thế thì chúng ta buộc phải chơi thôi. Vì học cũng không kịp nữa, làm cũng không kịp nữa. Chỉ có hưởng thụ là dễ dàng hơn cả. Lúc nào cũng được, lúc nào cũng kịp. Và hay nhất là không còn thời gian để sống mà ăn năn”.
Chúng tôi rời quán mà tiếc rẻ. Chỉ còn mỗi vài đôi tình nhân ngồi im lìm. Cô chủ quán cũng thế, má hồng, và lặng lẽ ngay mỗi bước đi. Thanh bắt đầu lo lắng: “Không khéo tay bảo vệ không cho vào”. Quân nói: “Em sẽ giúp chị leo rào”. Hương không nói gì, chân đi như thể đẩy đưa. Ngang hồ, Hương nói: “Nếu được tình có ai dám nhảy xuống bơi không?”. Tôi nghĩ đến em ngay lập tức, nghĩ đến đôi môi mọng nước của em và nghĩ, với đôi môi ấy, một yêu cầu điên rồ như thế cũng có thể thốt ra được lắm chứ. Hương lại hỏi: “Có ai dám không?” Tôi nói: “Ðiên à”, và nhìn làn nước xanh đen phẳng lặng, hơi phủ nghi ngút, chợt thấy em quả cũng vô nghĩa thật.
Rào quanh trường làm bằng lưới sắt, cao ngất nhưng chắc chắn. Những giọt nước đọng trên lưới trong vắt lên như ngọc, lúng liếng. Trên cao, một chùm dây điện đường ướt át đen trùi trũi bò qua, cọ mình qua lại trên rào. Mưa vẫn rả rích. Thanh nói: “Em ướt cả rồi.” Tôi nói: “Dây điện kia trông kinh quá”. Gió lại thổi mạnh hơn khiến dây cựa vào rào sắt kêu lên rin rít. Hương nói: “Ừ, kinh thật”. Quân hăm hở: “Không sao. Em leo lên trước đây”, rồi bám lấy rào leo lên như mèo. Quân chìa tay cho Hương, “Lên đi”. Lần lượt đứa trước đứa sau leo lên, ngồi vắt vẻo trên rào như bốn con ếch ướt. Hương nói, giọng vui vẻ: “Chúng mình cao nhất đấy.” Thanh nhìn xuống, lo lắng: “Sâu thật”, và bám lấy tôi: “Nó mà chạm điện một cái thì sao nhỉ?”. Quân nói: “Lo xa. Bây giờ anh chị biết em muốn gì không? Em muốn nói to”. Tôi đùa: “Sao không hét lên?”. Quân nói: “Không, em chỉ muốn nói to thôi”. Cái rào lung lay qua lại, như muốn oằn. Thanh thì thầm: “Xuống thôi, lão bảo vệ mò ra thì khốn.”.
Cả bọn rón rén lên cầu thang và chui vào phòng. Chăn mền tung ra một núi. Hương châm trà nóng, đặc quánh. Cả bốn cho chân vào chăn. Hương hỏi: “Còn buồn nữa không?” Tôi thành thật: “Không” và thấy một đêm lang thang dưới mưa lạnh này cứ như một giấc mơ, đằm thắm quá, êm đềm quá nhưng lại qua mất rồi, không thực nữa. Tôi nói: “Ðã lắm.” Quân nói: “Rất ưa chứ. Nhưng không phải ai cũng thích”. Thanh nói, giọng dài ra: “Trừ đám trẻ thôi. Ðiên thật!”.
Chẳng biết ai điên. Chẳng ai hỏi. Tôi duỗi chân ra và nằm xuống. Mắt tôi nặng trĩu và đầu óc mơ màng. Dường như tôi đang đi dần vào một giấc mơ mới. Trong giấc mơ đó, hiện hình một góc phố mùa đông mưa rơi lướt thướt, một người buồn bã vì thất tình, vì thua lỗ, vì rét mướt và một góc phố khác, đằm thắm, ngây ngô với bốn con ếch trẻ tươi roi rói, ngồi chồm hỗm trên rào sắt ướt, trĩu nặng một chùm dây điện trơ trọi vắt ngang.
11-1995
Hết
Nguồn: opera.com
Ngày gửi: 25/5/2010